Thứ Bảy, 3 tháng 8, 2013

Cách ngôn 10 điều vô ích của Lâm Tắc Từ

Quote
Lâm Tắc Từ (Chữ Hán: 林則徐, bính âm: Lin Zexu; 1785 - 1850), là một vị quan và là tướng nhà Thanh ở thế kỷ XIX trong lịch sử Trung Quốc. Ông được coi là một vị quan có chủ trương chống thực dân Anh trong cuộc chiến tranh Nha phiến (1840 - 1842)[1] và là người đã thi hành kiên quyết và triệt để lệnh cấm hút thuốc phiện. Ông đã tiêu hủy hơn 20.000 hòm thuốc phiện của các lái buôn ngoại quốc tại Quảng Đông. Ông cũng là người chỉ huy các lực lượng quân Thanh và nhân dân Trung Hoa kháng cự quyết liệt quân đội Anh trong cuộc chiến tranh Nha phiến.


Cách ngôn 10 điều vô ích của Lâm Tắc Từ

Ngọc Châu Phổ Thơ)

1. 存心不善,风水无益;
Tâm còn chưa thiện, phong thuỷ vô ích

Mang tâm bất thiện uổng mong cầu,
Phong thủy truy tìm mãi tận đâu?
Tâm đức đổi thay lòng dối trá,
Tánh hiền cải sửa dạ thâm sâu.
Tâm chơn cửa phước thênh thang mở,
Lòng chánh đường danh bát ngát thâu.
Phong thủy tự tâm không tự cảnh,
Mang tâm bất thiện uổng mong cầu.

2. 不孝父母,奉神无益;
Bất hiếu cha mẹ, thờ cúng vô ích

Bất hiếu Mẹ Cha lỗi đạo trời,
Tôn thờ lúc chết uổng công thôi.
Thâm ân dưỡng dục ơn hơn biển,
Đức lớn cù lao nghĩa vượt trời.
Thăm thẳm biển đông khôn sánh ví,
Trập trùng núi thái khó so lời.
Mẹ Cha tại thế không cung dưỡng,
Vô ích cúng dâng lúc chết rồi.

3. 兄弟不和,交友无益;
Anh em chẳng hòa, bè bạn vô ích

Anh em cốt nhục tánh thâm tình,
Bè bạn sao bằng nghĩa đệ huỳnh.
Vỏ đậu nấu thân, mình tội khổ,
Nồi da xáo thịt, xác đau hình.
Anh em nghĩa trọng nên trân quí,
Bè bạn tình sâu mới sáng minh.
Nếu chẳng yêu thương tình cốt nhục,
Bạn bè vô ích uổng giao tình.

4. 行止不端,读书无益;
Việc làm bất chánh, đọc sách vô ích

Đọc sách nhiều chi chẳng tạo lành?
Chuyên làm bất chánh phước sao sanh?
Phật kinh cội gốc khuyên hành thiện,
Thánh sách bước đầu học đạo nhân.
Sửa đổi lòng mê tâm dưỡng chánh,
Trau dồi trí sáng đức thành chân.
Học câu tạo phước cho nhân thế,
Lợi ích nhân sanh cố thực hành.

5. 作事乖张,聪明无益;
Làm trái lòng người, thông minh vô ích

Người kia trí huệ sáng thông minh,
Ỷ giỏi tài cao tánh hợm mình.
Nghịch trái lòng người tài bất dụng,
Thuận vâng ý Thánh đức cao minh.
Đức dày ắt hẳn tâm linh mở,
Phước thiển sao không giới đức gìn?
Trí sáng nuôi thân tâm hiệp chúng,
Không làm vô ích kiếp nhân sanh.

6. 心高气傲,博学无益
Kiêu căng ngã mạn, học rộng vô ích

Kiêu căng ngã mạn rẽ khinh đời,
Học rộng làm gì vô ích thôi.
Kiêu căng hoán đổi thành tâm Thánh,
Ngã mạn trau tâm dưỡng nết trời.
Sách sử làu thông tâm rộng mở,
Kinh văn bác lãm đức vun bồi.
Đem tài học rộng ra giúp thế,
Truyền bá hạnh lành khắp nơi nơi.

7. 时运不通,妄求无益
Thời vận không thông, vọng cầu vô ích

Thời vận không thông lọ phải cầu,
Nghiệp xưa tác tạo tránh nơi đâu.
Non cao khó dưỡng người gây nghiệp,
Biển rộng khôn dung kẻ tạo sầu.
Phước hưởng duyên lành nhờ ý sáng.
Quả gieo hạnh phúc tự tâm trau.
Oan khiên muốn giải lo tu sửa,
Vô ích cầu mong uổng vọng cầu.

8. 妄取人财,布施无益
Trộm cắp của người, bố thí vô ích

Đức tốt, tâm lành, tánh tự thanh,
Của người trộm cắp uổng tâm thành.
Phật, Trời chẳng chứng tâm phi nghĩa,
Tiên, Thánh đâu dùng dạ bất nhân.
Bác ái thanh tâm hành phước báu,
Từ bi vận trí tạo duyên lành.
Nhân lành kiếp kiếp hoa xinh nở,
Vô ích tâm tham uổng phước lành.

9. 不惜元气,服药无益;
Chẳng giữ nguyên khí, uống thuốc vô ích

Thân thể kiện khang vốn tự mình,
Ăn chơi quá độ họa thân sinh.
Thuốc Thần bổ quí tuồng vô ích,
Dược Thánh cao minh cũng khó gìn.
Thuốc quí tự thân nuôi dưỡng khí,
Linh đơn nơi tánh giữ thần tinh.
Chẳng gìn nguyên khí linh đơn uổng,
Vô ích tìm cầu thuốc diệu minh.

10. 淫恶肆欲,阴骘无益
Dâm tà loạn phép, âm đức vô ích,

Muốn cầu âm đức phước thâm sâu,
Loạn phép tà dâm uổng vọng cầu.
Yểm cựu sanh lòng hư nghĩa trước,
Nghinh tân tạo tánh hủy duyên sau.
Dâm bôn tội lỗi càng vương nợ,
Dục ái oan khiên khó gỡ sầu.
Muốn tạo duyên lành mau tự tỉnh,
Tâm lành chính trực phước thâm sâu.


Vậy là thiên hạ nhần nhọt lộn lên những gần 2000 năm đưa vào miệng Ngài Khổng Tử.
Ngẫm ra thật buồn cười. Lúc Lâm Tắc Từ, lúc Khổng Tủ...chả biết đâu mà lần. Vậy chắc là của Lâm Tắc Từ?!